Ngày 25.10.2013, Đại hội đồng UNESCO đã thông qua nghị quyết 37C/15, phê chuẩn quyết định số 191/EX/32 và192/EX32, vinh danh thi hào Nguyễn Du là danh nhân văn hóa nhân loại. Riêng ở nước ta, năm 2015 sẽ tổ chức lễ kỷ niệm 250 năm sinh của Nguyễn Du. Trước đây, Hội đồng hòa bình thế giới (không thuộc UNESCO) vào năm 1965 đã ra nghị quyết kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du.

 

 

Trong sự nghiệp vĩ đại của Nguyễn Du (1765 - 1820), Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) là tác phẩm sống động trong lòng nhân dân đã bao năm tháng. Riêng phần thơ chữ Hán - nơi phản ánh khá đầy đủ và sâu sắc tâm hồn thi sĩ, được bàn đến dưới đây chỉ là một phương diện trong muôn màu tâm trạng của ông.

 

Ở bài này, người viết chỉ muốn khảo sát một chủ đề quan trọng trong gia tài đồ sộ của nhà thơ. Đó là ý thức dân tộc và tấm lòng yêu nước của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán qua một số tập thơ: Thanh hiên thi tập (78 bài), Nam trung tạp ngâm (40 bài), Bắc hành tạp lục (131 bài).

 

Có thể nói, đây là ba tập nhật ký liền mạch kéo dài khá đầy đủ gần 30 năm, kể từ “mười năm gió bụi” (1786 - 1795), rồi tiếp tục viết cho đến lúc nhà thơ giã từ cõi đời vào năm 1820. Nếu đọc kỹ, ngày nay bạn đọc có thể hiểu được đầy đủ con người và cuộc sống, thế giới quan cũng như quan điểm thẩm mỹ. Dưới ngòi bút của tác giả, dù là cảm xúc tức thời, song đối tượng phản ánh sinh động, phong phú, nhiều hình nhiều vẻ. Đặc điểm nổi bật đầu tiên là về mặt đối tượng sáng tác, nhà thơ không viết theo khuôn mẫu đề tài định sẵn mô phỏng kiểu thi ca Hán Đường Tống Nguyên… mà dòng cảm xúc tuôn trào đến đâu thì phóng bút đến đấy. Vui buồn, yêu thương, căm giận, ưu tư, ham muốn… tức thời đan xen suy nghĩ sâu sắc về thế sự… không thể hiện theo bút pháp ước lệ, tượng trưng, mà đậm nét khác biệt, chỉ ghi chép hiện thực tâm trạng trước những gì được nẩy sinh từ đáy lòng mình qua từng bước nếm trải cuộc sống. Sẽ không sợ quá lời rằng, Nguyễn Du thuộc bậc “thánh thi”. Dường như mỗi bước đi, một khóe nhìn là có thể cầm bút viết nên bài thơ tứ tuyệt, hoặc bài thất ngôn… đầy cảm xúc như lời đối thoại tâm tình với chính mình, hoặc với thế giới bên ngoài, lúc bằng chữ Hán, khi bằng chữ Nôm trước vô vàn chuyện cảnh chuyện người trong biến đổi muôn màu giữa dòng đời cuộn chảy.

 

Với một khối lượng kiến thức uyên bác, mênh mông đầy nhạy cảm, qua các nhân vật văn hóa, văn nghệ, lịch sử… của Việt Nam lẫn Trung Hoa, nhà thơ muốn gửi gắm tâm tư nguyện vọng của mình về thời cuộc trên các nẻo đường đã trải qua. Điều nổi bật là vào năm 1813, lần đầu tiên Nguyễn Du đi qua biên giới Nam Quan tới nước Trung Hoa trên cương vị chánh sứ, trưởng đoàn ngoại giao của triều đình nhà Nguyễn.

 

Nếu như trước đây cảm xúc của nhà thơ dồi dào chất trữ tình trước những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, hoặc động lòng trắc ẩn khi chứng kiến những số phận hẩm hiu, những cảnh đời bất hạnh, thì nay lại có thêm dòng suy tư về vận mệnh đất nước, về con đường lịch sử của dân tộc. Cùng với chủ nghĩa nhân đạo truyền thống, Nguyễn Du còn bộc lộ rõ tâm trạng yêu nước qua một số bài thơ chữ Hán. Cụ thể là chùm thơ liền mạch bốn bài trong Bắc hành tạp lục được viết theo hành trình đi sứ Trung Hoa:

 

- Trấn Nam quan.

- Quỷ môn quan.

- Giáp thành Mã Phục Ba miếu (miếu thờ Mã Phục Ba ở Đại Than).

Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu (Đề miếu Mã Phục Ba ở Đại Than).

Đã từ lâu, chùm thơ này, chưa một lần được chú ý trong hệ thống sáng tác của thi hào. Trước hết hãy đọc bài Trấn Nam quan:

Việc cũ đời Lý Trần xa xôi khó tìm biết,

Trải qua ba trăm năm cho đến ngày nay.

Bức thành lẻ loi này phân chia hai nước?

Một cửa ải hùng vĩ đứng trấn giữa lòng muôn ngọn núi…

(Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm)...

 

Trấn Nam quan được nhà thơ khắc họa như lời khẳng định thêm một lần nữa biên cương của Tổ quốc từng được thiết lập từ bao đời giữa lưỡng quốc và hùng trấn một phương nơi điệp trùng núi non phân cách. Quả thật “nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm” là một bức tranh ngời sáng, hùng vĩ, đầy nét tạo hình gợi cho người đọc nhớ đến âm thanh hào sảng từ bài thơ Thần thời Lý Thường Kiệt chống ngoại xâm (1076) hơn bảy trăm năm về trước. Và như đâu đây vẫn còn vang lên âm điệu mạnh mẽ của bản tuyên ngôn độc lập dân tộc Đại cáo bình Ngô sau chiến thắng quân Minh xâm lược.

 

Không phải ngẫu nhiên mà bài Trấn Nam quan xuất hiện cùng một thời gian với bài Quỷ môn quan. Có thể làm một so sánh với chùm thơ được viết trước đây trong hành trình lần thứ nhất tới Lạng Sơn để nghênh tiếp sứ thần nhà Thanh sang phong vương cho Gia Long (1803), Nguyễn tiên sinh đã viết một loạt bài thơ cảm tác, nổi bật là:

 

Quỷ môn đạo trung (Trên đường qua ải Chi Lăng)

Lạng Sơn đạo trung (Trên đường đi Lạng Sơn)

Vọng phu thạch (Hòn đá vọng phu)

Đệ Nhị Thanh động (Động Nhị Thanh)

Xuân tiêu lữ thứ (Đêm xuân lữ thứ)

 

Chùm thơ năm bài trên được xếp vào tập Nam trung tạp ngâm chỉ dừng lại biểu hiện những cảm xúc trữ tình cá nhân trước thiên nhiên đầy ấn tượng nơi biên thùy hai nước Việt - Trung, chốn địa danh lịch sử sơn thủy hữu tình lần đầu tiên tác giả đặt chân tới, giống như những cảm xúc thường gặp mỗi khi nhà thơ đứng trước núi sông, mây trời tươi đẹp trên quê hương Lam - Hồng, hoặc dọc đường vào kinh đô Huế theo dãy Hoành Sơn trùng điệp. Hơn nữa, tuy lần đầu tiên làm nhiệm vụ sứ thần đối ngoại, nhưng ở thời kỳ này tâm trạng nhà thơ đang ngổn ngang trăm mối trước việc nước việc nhà đan xen. Nỗi buồn tràn ngập đến trào “nước mắt thấm khăn” về nỗi đời đa đoan: vợ và đàn con nheo nhóc đói rét chốn Tiên Điền mỏi mắt trông đợi, còn sự nghiệp văn chương vẫn đang bồng bềnh. Nghĩ thương phận mình, vốn đường đường một đấng nam nhi thuộc dòng danh gia vọng tộc lừng danh một thời. Bão táp cách mạng nông dân Tây Sơn đã cuốn đi tất cả. Thời bấy giờ đúng lúc ông vừa mới lơ láo vào chốn quan trường của triều đình Gia Long (lên ngôi 1802), một thành viên trí thức Bắc Hà vừa bước vào cộng tác với chính quyền nhà Nguyễn; lòng dạ trăm mối, nhà thơ chưa thể hòa nhập chia sẻ niềm vui mới giữa thời cuộc, mà chỉ muốn về quê. Nỗi bâng khuâng giữa dòng đời được hiển hiện ở bài Xuân tiêu lữ thứ:

 

…Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không nghĩ đến chuyện rong ruổi,
 

Trên đường danh lợi, buồn hay vui cũng không được tự nhiên.

Người thì tiều tụy, nhưng xuân vẫn đẹp

Đứng dưới Đoàn thành (Lạng Sơn), nước mắt thấm khăn.

 

Khác hẳn bài Quỷ môn đạo trung được viết mười năm trước, thì chuyến đi lần này hình ảnh Quỷ môn quan lại hiện ra dưới tầm mắt nhà thơ - sứ giả một điểm nhìn mới, một sự tự ý thức đậm nét trên cương vị một trưởng phái đoàn ngoại giao với tư thế “phương diện quốc gia” đại diện cho dân tộc Việt Nam. Đi qua cửa ải hiểm trở này, Nguyễn Du đã nhớ lại quá khứ lịch sử, rồi gọi đích danh Mã Viện để phê phán hành động cướp nước trắng trợn tàn bạo của gã, đồng thời chính trên mảnh đất này, ý thức tự cường dân tộc của nhà thơ được thể hiện rành rành trong hai câu mở đầu của bài Quỷ môn quan:

 

 Núi liên tiếp cao vút tận mây xanh

Nam Bắc chia ranh giới ở nơi này

 

 Đây là lời khẳng định lại lần nữa biên cương Tổ quốc nước Việt có tự bao đời. Tiếp đến hai câu thực, tác giả xoáy sâu vào tấn bi kịch lịch sử mà chính Phục Ba tướng quân đã gây nên trong cuộc chiến dã man đẫm máu:

 

 Chốn này có tiếng nguy hiểm như thế,

Thương thay biết bao người vẫn phải đi về!

 Rồi từ đó rút ra lời đánh giá rất sắc bén:

 Từ xưa gió lạnh thổi xương trắng,

Kỳ công của tướng quân nhà Hán có gì đáng khen!

 

 Đúng là Hán tướng quân đem binh mã rầm rộ sang đánh Giao Chỉ, tuy có lúc thắng trận, nhưng quân lính chết như rạ, thật không phải là chiến công đáng ca ngợi. Bản dịch đã diễn thành thơ khá đạt:

 

 Ngàn thu gió lạnh phơi xương trắng,

Công cán khen gì tướng Hán hay.

 

 Cũng chẳng khác nào tiếng cười đả kích của nữ sĩ Hồ Xuân Hương cùng thời, khi “ghé mắt trông sang” đền thờ Sầm Nghi Đống, rồi bỗng hài hước chất vấn gã tử tướng đáng tủi hổ kia: ... Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!?

 

 Mở rộng hơn, sau khi đặt chân lên đất Trung Hoa, nhà thơ sứ giả lại khắc họa chân dung tướng Phục Ba lúc đi qua miếu thờ của ông ta bằng hai bài thơ đầy góc cạnh. Bài thứ ba Giáp Thành Mã Phục Ba miếu được mở đầu:

 

 Người già sáu mươi tuổi thì gân sức suy,

 Mà ông còn mặc áo giáp nhảy lên yên ngựa nhanh như bay…

 

 Mặc dù vị chánh sứ không hề đề cập chuyện quan hệ đối ngoại trước mắt, song rõ ràng là nhà thơ thể hiện đúng đắn ý thức dân tộc chân chính trong hồi tưởng quá khứ lịch sử, như ngày nay ta thường nói “lấy xưa để nói nay”. Hơn nữa cũng không phải ngẫu nhiên mà ông vạch rõ Mã Viện chỉ là kẻ xâm lược đích thực và còn chế giễu sâu cay hình ảnh “đồng trụ Mã Viện” cũng như chuyện tham lam vàng bạc, ngọc châu rắc rối lúc Phục Ba chầu trời:

 

 … Cột đồng trụ chỉ lừa được đàn bà con gái đất Việt,

 Xe ngọc châu luống để lụy cho con cái trong nhà.

 

 Hình ảnh “Cột đồng trụ chỉ lừa được đàn bà con cái Việt” vừa bóng bẩy, đa nghĩa, thấp thoáng nụ cười mai mỉa, vừa toát lên tội ác thâm độc lâu dài của kẻ thù. Từ đấy dẫn đến kết luận đích đáng về con người Mã Viện trong xã hội Trung Hoa bằng ngôn ngữ thơ với giọng điệu châm biếm pha nét khinh bỉ:

 

 Tên tuổi ông chỉ đáng được ghi ở gác Vân Đài thôi

 Chứ sao lại còn đòi nước Nam hàng năm cúng tế?

 

 Bài thơ ngắn mà cấu tứ đầy nét tương phản qua các hình tượng trái ngược. Lời chất vấn quá khứ vừa sắc sảo, vừa đậm nét phê phán hóm hỉnh tạo nên tiếng cười thâm thúy. Không dừng lại đó, tác giả vẫn tiếp tục lên án nhân vật hiếu sát và hiếu danh ấy, dường như muốn cho mọi người nhớ về quá khứ rằng, tướng Phục Ba tuy tuổi già còn hăng hái xông pha trận mạc, nhưng cũng từng nếm trải những tháng ngày khiếp sợ trên đất Giao Chỉ đến mức đã phải “hối hận” tại hồ Dâm Đàm (Hồ Tây), nơi ông ta đặt trạm chỉ huy trung tâm gần hai nghìn năm về trước qua bài Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu:

 

 Mở đường Ngũ Lĩnh sang đánh Viêm Bang,

Công danh hơn đời ghi trong sử sách

Về già còn khoe mình quắc thước

Ngoài cơm áo, cái gì cũng là thừa.

 Sóng gió nơi Đại Than lưu công trạng ngày trước,

Tùng sam cạnh miếu cổ cách làng xóm cũ.

 Trong bóng chiều, dưới đám gai góc ở phía tây thành,

Lời hối xưa ở hồ Dâm Đàm như thế nào rồi?

 

Câu hỏi tu từ đầy chất nghi vấn khẳng định. Hình ảnh “Dâm Đàm di hối” thật hàm súc, sâu cay gắn liền với chuyện xưa kể rằng Mã Viện đem quân sang đánh Hai Bà Trưng đóng quân ở cạnh hồ Dâm Đàm. Ông ta trông thấy mặt hồ mờ mịt lam sơn chướng khí đến nỗi diều hâu bay lượn trên mặt hồ đều bị rơi xuống nước. Vị tướng Tàu đâm ra hối hận than rằng: “Nay nghĩ lại lời Thiếu Du mới thấy đúng, nhưng không làm sao được nữa!”.

 

 Chuyện còn kể thêm, lúc tướng Phục Ba lên đường đánh Giao Chỉ thì người em họ là Thiếu Du quá thương anh đã già, mà đi chinh chiến đường xa đầy hiểm nguy, nên tỏ lời khuyên ngăn: “Người ta sinh ra ở đời cốt ăn mặc vừa đủ thì thôi, nếu cầu lấy thừa thãi thì sẽ khổ thân”.

 

 Dựa vào ý đó, Nguyễn Du nhắc lại bằng câu thơ: “Ngoài cơm áo cái gì cũng là thừa”, nhằm chế giễu vị tướng Tàu tham danh, tham lợi, hiếu sát, rồi hối hận là đã trót thì phải trét. Hình tượng Mã Viện, một đối tượng lịch sử, cụ thể, đích thực, chẳng phải ngẫu nhiên được nhắc lại đến ba lần qua ba bài thơ, gắn liền với quá trình bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm của dân tộc ta từ những ngày đầu dựng nước đã được khắc họa cô đọng, đầy ý nghĩa. Những vần thơ ấy tuy đã cách xa chúng ta đến hơn hai trăm năm, song vẫn dồi dào tính thời sự trên hành trình phát triển của thi ca Việt Nam từ cổ điển đến hiện đại .

 

 Về nội dung cũng như nghệ thuật, bốn bài thất ngôn bát cú quả không nhiều trong tập thơ chữ Hán Bắc hành tạp lục gồm 131 bài. Tuy viết bằng Hán tự và phải khuôn theo lối kết cấu đối xứng gò bó ngắn gọn, nhưng các tác phẩm ấy lại chứa đựng một dung lượng lịch sử rộng lớn đa nghĩa, vừa hiện thực, vừa súc tích trầm lắng, đầy hình ảnh gợi cảm vượt cả thời gian không gian khiến cho người đọc xưa và nay phải suy nghĩ và càng hiểu rõ hơn tư tưởng, tình cảm cũng như sự nghiệp đồ sộ của nhà thơ.