nguyendu.d.webcom.vn
Loading...

"Truyện Kiều” một danh tác tinh hoa


“Truyện Kiều” là sáng tạo của thiên tài Nguyễn Du đồng thời là sản phẩm lịch sử tất yếu. “Truyện Kiều” là kết quả của quá trình văn hóa - văn học, một quá trình hình thành môi trường sáng tạo của thiên tài Nguyễn Du.
 
Bản nôm “Truyện Kiều” 1902 do Kiều Ánh Mậu chú thích
 
Xét về thể loại, “Truyện Kiều” thuộc thể loại truyện nôm, nhưng thuộc nhóm truyện nôm bác học. Cho đến nay, giới nghiên cứu đã thống nhất, những truyện nôm đầu tiên xuất hiện khoảng thế kỷ 17 là truyện nôm bình dân, kiểu truyện kể dùng thơ lục bát kể lại các truyện cổ tích dân gian như “Phạm Công Cúc Hoa”, “Tống Trân”, “Phạm Tải Ngọc Hoa”, “Phương Hoa” …  
 
Mô thức cốt truyện của truyện nôm bình dân thường kể về nhân vật nam mồ côi cha, nhà nghèo, phải đi ăn xin nhưng quyết chí học hành, đỗ đạt; nhân vật nữ là con nhà giàu, xinh đẹp, có tình thương yêu người hàn sĩ, quyết tâm nuôi chồng ăn học và kiên trinh chờ đợi, dẫu cho trải qua nhiều thử thách.
 
Tác giả của truyện nôm bình dân là các nho sĩ bình dân, những người không đỗ đạt cao, sống trong môi trường nông thôn.  Có thể nói, truyện nôm bình dân đáp ứng nhu cầu tâm lý của tầng lớp nho sĩ bình dân đang có hy vọng vươn lên đổi đời, thay đổi thân phận nghèo hèn bằng nỗ lực sôi kinh nấu sử trong điều kiện nhà nước phong kiến đề cao khoa cử, xem “hiền tài là nguyên khí quốc gia”.
 
Đồng thời, các truyện nôm bình dân cũng chuyển tải nội dung xã hội đậm đà, nhất là các quan hệ xã hội, các vấn đề thế thái nhân tình, hay nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc, truyện nôm bình dân đặt vấn đề bảo vệ tình vợ chồng, bảo vệ hạnh phúc gia đình và tên của nhiều truyện nôm bình dân được cấu thành từ tên của những cặp vợ chồng . Kiểu truyện này còn tồn tại mãi đến đầu thế kỷ XX trong các văn bản quốc ngữ hóa cho thấy chúng đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của một bộ phận công chúng nhất định trong một thời gian dài, được chuyển thể thành tích chèo, tuồng.
 
Truyện nôm bình dân của người Việt đã có ảnh hưởng mạnh mẽ trong truyện nôm các dân tộc ít người, tiêu biểu là truyện nôm Tày, Thái. Vậy là kiểu truyện nôm bình dân có một không gian lưu truyền khá rộng, trong một thời gian vài ba thế kỷ.
 
Bên cạnh sự tồn tại của dòng truyện nôm bình dân, một số  nhà nho Việt Nam từ thế kỷ 18 đã tiếp nhận ảnh hưởng của loại tiểu thuyết tài tử giai nhân ở Trung Quốc để từ đó xuất hiện một loại truyện thơ nôm kiểu mới mà giới nghiên cứu thường gọi là truyện nôm bác học để phân biệt với kiểu truyện thơ nôm bình dân.
 
Nội dung của truyện nôm bác học phong phú, đa dạng. Các tác giả thường viết về những mối tình của những giai nhân tài tử, yêu nhau một cách tự do vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến. Ngoài ra cũng có những tác phẩm không phải chỉ nói đến tình yêu mà còn đặt những vấn đề khác có ý nghĩa nhân sinh và xã hội rộng lớn như “Truyện Kiều”.  
 
Vì sao bên cạnh các truyện nôm bình dân, lại xuất hiện truyện nôm bác học vay mượn cốt truyện và chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết tài tử giai nhân ?
 
Chất lãng mạn của các mối tình tài tử giai nhân của tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung Quốc là sản phẩm của đời sống đô thị khá phát triển từ đời Đường trở đi có sức hấp dẫn lớn đối với các nhà nho Việt Nam sống trong môi trường đô thị Thăng Long. Khi ấy, tâm lý đạo đức thẩm mỹ của nhà nho luôn trong thế lưỡng phân. Một mặt, họ muốn viết những tác phẩm có nội dung giáo huấn đạo đức, đưa tình yêu nam nữ vào vòng kiểm soát nghiêm khắc của lễ giáo. Mặt khác, họ lại hứng thú ngấm ngầm với tình yêu tự do, trai tài gái sắc không nghĩ đến “phụ mẫu chi mệnh” khi hứa hẹn chung tình.  
 
Nhìn chung, truyện nôm bác học theo mẫu hình tiểu thuyết tài tử giai nhân cuối Minh đầu Thanh bổ sung cho bức tranh văn học trung đại Việt Nam thêm mảng màu sắc văn chương thành thị.
 
Tuy nhiên, các tác giả Việt Nam chỉ chọn truyện cổ dân gian Việt Nam và tiểu thuyết tài tử giai nhân để chuyển thể thành truyện thơ lục bát mà không chọn tiểu thuyết lịch sử của Trung Quốc. Sự lựa chọn truyện dân gian và tiểu thuyết tài tử giai nhân để kể lại cho thấy định hướng mỹ học của thể loại truyện thơ nôm lục bát có những nét riêng.   
 
Trong nhóm truyện nôm bác học mang màu sắc tiểu thuyết tài tử giai nhân, “Truyện Kiều” hầu như tách riêng ra, có một vị thế đặc biệt, “đột ngột như một ngọn cô phong ở giữa đám quần sơn vạn hác vậy”.
 
Trong khoảng 250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, không bắt gặp bài thơ nào viết về tình yêu nam nữ mạnh dạn, có nhiều sắc thái dục tính như trong “Truyện Kiều”. Cả ba người tình chủ yếu Kim Trọng - Thúc Sinh - Từ Hải mỗi người một vẻ nhưng đều giống nhau ở tâm lý tính dục. Và cũng trong thơ chữ Hán, không có bài thơ nào viết về nhân vật nổi loạn chống triều  đình như nhân vật Từ Hải trong “Truyện Kiều”.
 
Những tư tưởng nghệ thuật được Nguyễn Du nung nấu đã thấp thoáng đây đó trong các bài thơ chữ Hán cho đến khi Nguyễn Du đọc “Kim Vân Kiều truyện” - một tác phẩm được cho là truyện nôm bác học - thì định hình rõ nét. Có thể đoán đây là một trong những lý do chính quyết định việc Nguyễn Du vay mượn cốt truyện. Sự “nổi loạn”, bung phá về chính trị, đạo đức và thẩm mỹ, tôn vinh con người nhân bản đầy tinh thần phục hưng trong môi trường văn hóa chính trị phong kiến cấm kỵ ngặt nghèo cần phải được thể hiện một cách an toàn.   
 
Nếu quan hệ Thúy Kiều - Kim Trọng làm nên dáng dấp của tiểu thuyết tài tử giai nhân thì quan hệ Thúy Kiều –Thúc Sinh, Thúy Kiều - Từ Hải lại làm nên sắc thái của tiểu thuyết xã hội, tiểu thuyết nhân tình thế thái. Đây là một hướng lựa chọn khiến cho triển vọng thành công của tác phẩm cao hơn hẳn việc chọn các cốt truyện thuần túy tiểu thuyết tài tử giai nhân. Sau khi lựa chọn cốt truyện  , nhà thơ vận dụng các thành tựu văn học Việt Nam đương thời như thể loại ngâm khúc, thể loại truyện thơ nôm quen thuộc để kể lại câu chuyện. Giới nghiên cứu đã chỉ ra việc Nguyễn Du tiếp nhận kinh nghiệm của ngâm khúc để miêu tả tâm lý nhân vật Truyện Kiều. Nguyễn Du cũng thay đổi mô hình tự sự của “Kim Vân Kiều truyện” , đổi mới cho phù hợp với thể loại truyện nôm, tăng cường tính trữ tình và giảm bớt nhiều chi tiết, gạt bỏ các bài thơ của các nhân vật trong nguyên truyện để trực tiếp miêu tả nội tâm nhân vật.   
 
Trên nền văn hóa tự sự của dòng truyện thơ nôm Việt Nam, “Truyện Kiều” đã xuất hiện trong tư thế một danh tác. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không đơn thuần là một bản dịch từ “Kim Vân Kiều truyện”  vì danh tác này nằm trong một mối quan hệ liên văn bản chằng chịt với văn học và văn hóa Việt Nam thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19. Nguyễn Du hấp thụ tinh hoa văn hóa dân gian và văn học bác học của nhiều vùng miền. Không gian Thăng Long, Bắc Ninh, Hà Tĩnh, Thái Bình, Huế và không gian văn hóa Trung Hoa ẩn sau những thành tựu nghệ thuật của nhà thơ vĩ đại.  
 
“Truyện Kiều” lại phát huy ảnh hưởng đến sáng tác đương thời, có sức lan tỏa rộng kể cả trong phạm vi Việt Nam và vượt ra ngoài biên giới Việt Nam được dịch ra nhiều thứ tiếng . “Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng trở lại với môi trường diễn xướng thơ lục bát dân gian, thành hành trang văn hóa của người dân Việt Nam, một sự kiện hiếm có trong lịch sử văn học nhân loại.
 
Theo PGS.TS Trần Nho Thìn/laodongthudo.vn

 


Tin tức sự kiện
Trung Quốc khai quật mộ bà của Tần Thủy Hoàng Sáng nay (12-9), UBND tỉnh Hà Tĩnh tổ chức góp ý Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo Di tích quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du. Đồng chí Nguyễn Thiện - Phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh chủ trì cuộc họp. Quyết định số 2542/QĐ-TTg ngày 20/12/2013 của Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo Khu lưu niệm Nguyễn Du với mục tiêu trọng tâm là xây dựng Khu lưu niệm Nguyễn Du thành trung tâm văn hóa du lịch quốc gia. Công ty cổ phần mỹ thuật và xây dựng Việt Nam là đơn vị tư vấn nghiên cứu, xây dựng quy hoạch. Phạm vị nghiên cứu quy hoạch gồm 340 ha thuộc địa phận xã Tiên Điền, một phần thị trấn Nghi Xuân. trong đó diện tích bảo tồn, phát huy giá trị của khu di tích quốc gia đặc biệt có khoảng 50ha. Quy hoạch hình thành 4 khu chức năng chính: 1. Khu lưu niệm, quảng trường Tố Như, không gian thơ ca Nguyễn Du: là khu vực không gian quảng trường lễ hội, không gian trưng bày, diễn xướng ngữ văn dân gian làng Tiên Điền, không gian tham quan và du lịch chủ đề. 2. Không gian văn hóa truyền thống Tiên Điền, Nghi Xuân và Trung tâm diễn giải du lịch văn hóa lịch sử gắn với giá trị thơ ca và cuộc đời Đại thi hào Nguyễn Du; 3. Không gian Nguyễn Du: giới thiệu minh họa, thuyết minh về cuộc đời của Đại thi hào, gia tộc, thân thế, sự nghiệp và tha m quan tìm hiểu về lịch sử thời đại Nguyễn Du (150 năm cuối thời kỳ trung đại lịch sử Việt Nam từ Nguyễn Nghiễm đến Nguyễn Công Trứ) 4. Không gian phong cảnh tưởng niệm và mộ Đại thi hào Nguyễn Du. Ngoài ra quy hoạch còn có 2 trung tâm dịch vụ du lịch văn hóa: Trung tâm dịch vụ du lịch - điều hành; Trung tâm giới thiệu sản vật địa phương và nghề truyền thống “Tiểu triều đình”. Sau khi đơn vị tư vấn báo cáo nội dung quy hoạch đã có nhiều ý kiến góp ý làm đề nghị rõ về chức năng của các khu chính, sự liên hoàn giữa các phân khu với nhau, tính thực tế và khoa học, diện tich nghiên cứu quy hoạch và diện tích triển khai thực hiện... cần quan tâm đến môi trường sinh thái, tính dân sinh, giao thông, thoát nước phù hợp với điều kiện thức tế của địa phương. Chú trọng tới khu vườn cũ của Đại thi hào Nguyễn Du, Nhà bảo tàng Nguyễn Du, phục dựng một số điểm di tích liên quan văn hóa cộng đồng làng. Kết luận hội nghị, đồng chí Nguyễn Thiện - PCT thường trực UBND tỉnh chủ trì cuộc họp cơ bản thống nhất với quy hoạch được báo cáo và đê hoàn thiện quy hoạch đ/c PCT tỉnh đề nghị đơn vị tư vấn tiếp thu các ý kiến, tiếp tục nghiên cứu để quy hoạch đảm bảo tính khoa học, tính khả thi xứng tầm với Đại thi hào Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa Thế giới, sớm hoàn thiện trình lấy ý kiến của các ngành liên quan trước khi hoàn chỉnh quy hoạch trình chính phủ phê duyệt. Bách Khoa

Tham quan ảo 3D

nguyendu.d.webcom.vn

Thư viện phim tư liệu

Bộ đếm lượt truy cập

di tich Nguyen Du

Liên kết Website