nguyendu.d.webcom.vn
Loading...

Bộ đếm lượt truy cập

web counter html code

Văn bia đình Hội Thống.


Đình Hội Thống thuộc xã Xuân Hội, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, là một công trình  kiến trúc nghệ thuật đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1990.
 
Đình Hội Thống hay còn được gọi là đình Kiên Nghĩa, được xây dựng năm Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ (1659) và hoàn thanh năm Canh Tý (1660). Đây là ngôi đình  mang nét kiến trúc thế kỷ 17 đẹp nhất ở vùng Hà Tĩnh. Tại đây còn lưu giữa hai tấm bia đá: Hậu thần bi ký và Lập Thạch bi ký. Xin giới thiệu nội dung của văn bia Hậu thần bi ký và Lập thạch bi ký đến với bạn đọc.
 
 
1. Hậu thần bi ký

 

Bia dựng trong nhà bia đình Hội Thống, xã Xuân Hội, huyện Nghi Xuân. Bia 2 mặt, khổ 110 x 62 cm, chạm mặt hổ phù, hoa lá, chữ Hán, chân phương.  Có một số chữ bị đục, như chữ “quân”  chỉ vị Hậu Thần họ Vũ được thờ ở đình và “sinh nhật” của Hậu Thần. Có lễ do đời sau xóa đi không rõ vì nguyên nhân gì. Bia dựng năm Gia Long 8 (1808) đời vua Nguyễn.
 
 
Phiên âm: Hậu thần bi ký
 
Đức Quang phủ, Nghi Xuân huyện, Đan Hải tổng, Hội Thống xã, Hậu Thần bi ký.
 
Kim phù thí báo đức chi thứ dã. Thiên hạ vụ chi nhi huống ư hương hồ? Cựu Đồng tri Nghi Lĩnh bá Vũ Vinh Tiến, ngô ấp nhân dã. Hào mại kỳ tính, nhân nghĩa kì tâm. Lữ hữu tư phủ nhi tâm bất vong bản. Phàm sự bất kê tài lực phụng Thần chi nghi, phả vi tu sức. Thích hữu đê dịch, diệc vi chi biện. Ngô ấp cảm chi, kí nãi quyên tư cổ tiền lục bách tam  thập dẫn, quân chi ấp viên chức. Binh Hộ nhị bách dẫn, các chức tại Thăng Long thành tam thập dẫn công dụng dã. Tứ thôn các nhất bách dẫn liễm tán thủ tức. Đệ niên dung tiền nhu dã. Thả tiền hoang hĩ, liễm nan hĩ. Quân chi thí diệc hậu hĩ,
 
Ngô ấp mưu sở dĩ báo chi viết: Tục hữu Hậu Thần nhi tư khả hồ? Giai viết: khả. Toại bảo quân dữ chính thất Trần thị. Hựu truy bảo quân tiền hiển khảo tỉ tính vi Hậu Thần báo thí dã. Quân viết: Tự bất khả vô điền dĩ kì phì điền bát mẫu, quân chi ấp viên chức Binh Hộ nhị mẫu nhi  tứ thôn các nhất ngũ cao dĩ cung tự. Ư thị vi ước nhi thư chi bi ước như tả.
 
Hậu Thần cựu Lê triều Thiêm tổng tri Phúc Lãnh bá Vũ công tự Hán Trực, hiệu Nghĩa Chính, thụy Đôn Hậu chi linh, chính nguyệt nhị thập tứ nhật kỵ.
 
Thiêm tổng tri Phúc Lĩnh bá Vũ chính thất Trịnh thị hiệu Từ Nhã, thụy Ôn Nhu, chính nguyệt nhị thập nhất nhật kị.
 
Cựu Đồng tri Nghi Lĩnh bá Vũ công tự Vinh Tiến, hiệu Quang Diệu, thụy Chiêu Như, Kỷ Mão niên chính nguyệt thập ngũ nhật, thập nhịnguyệt thập ngũ nhật kị.   
        
Cựu Đồng tri Nghi Lĩnh bá Vũ chính thất Trần thị hiệu Từ Đức thụy Thận Cung, Tân Tỵ niên thập nguyệt nhị thập ngũ nhật.
Thời. 
                                                                                       
Hữu ư Kỷ Mão niên bản xã phụng cải đinh bạ tăng số tam thập nhất suất, Giáp Thân hạ đăng đại Hậu Thần hữu hậu tâm. Tái dương gia tư cổ tiền nhất bách lục thập dẫn giao dữ tứ thôn trí trái đồng niên thủ tức tiên cúng nạp dung thuế, nhưng thuyên vu thứ thị lai khán(1)
 
Hoàng triều Gia Long vạn vạn niên chi bát, tuế tại Kỷ Tỵ cửu nguyệt sơ tam nhật lập. Bản xã đồng soạn cộng kí.
 
Mặt sau: Du cửu vô cương
 
Hậu Thần các lễ lệ tính đồng điền xứ sở dĩ hạ:
 
Phàm ca xướng kì phúc quân tọa đình trung hữu biên chi thượng, thị tọa hương án hậu.
 
Phàm kì phúc đại lễ tứ thôn các nhất nhân thỉnh tựu đình, lễ ngật hợp biếu cụ nhất bàn tính kính nội nhất cân.
 
Sinh nhật mỗi lễ vật đương cổ tiền tam mạch.
 
Bách tuế hậu viên chức, tư văn, binh hộ, xã trưởng tính tống tế như nghi. Kỳ tống chung, lực dịch tùy tộc thỉnh tứ thôn đồng chi.
 
Hậu Thần bi lập vu đình vũ ngoại tả biên, trung gian quân dữ thị sinh nhật tính tương lễ vật tựu bi tiền vi hạ, bách tuế hậu tựu vi kị lễ kì các kị nhật mỗ thôn cúng lễ giả nghi dĩ phù lưu dự cáo Thần tại đình. Lâm thời tư văn tề chỉnh y mạo tựu bi tiền hành lễ. Bản xã viên chức tứ thôn trùm trưởng tính tựu ứng lễ mỗ thôn cúng lễ giả kì thôn trùm trưởng chủ tế kì chúc văn phối hưởng như gia lễ cát kị thức. Mồi kị lễ tất dĩ sinh kính nhất cụ bàn nhất biếu bản tộc sinh thủ biếu hành lễ giả, nhục chiếu hiện tại ẩm thụ.
 
Đệ niên bản xã tế Thần đại lễ chúc văn thượng hưởng vũ chi thượng ứng tả kính kí hậu Thần liệt vị phối hưởng tính biệt chỉnh cụ nhất bàn, phù lưu tửu dụng túc trí bi tiền, tế tất hoàn bản xã.
 
Binh hộ, tư văn, xã trưởng điền nhị mẫu các chiếu bản phận thu thủ hòa cốc Hậu thần nhị vị, bách tuế hậu cụ nhị lễ mỗi lễ tam quan.
 
Tự điền quân tứ thôn các sở cộng lục mẫu, nội tứ chí cụ tại bảo từ.
 
 Đông Thượng thôn nhất mẫu ngũ cao, Đông Hạ thôn nhất mẫu ngũ cao, Đoài Thượng thôn nhất mẫu ngũ cao, Đoài Hạ thôn nhất mẫu ngũ cao.
 
Giá tự điền nghi các chiếu bản phận thu thủ hoa cốc đồng niên mỗi thôn chỉnh biện nhất lễ, chuẩn tiền tam quan.
 
Binh hộ tư văn, xã trưởng điền các sở cộng nhị mẫu, nội tứ chí cụ tại bảo từ.
 
Binh điền bát cao. Xã trưởng nhất cao.
 
Dịch nghĩa: Văn bia Hậu Thần
 
Bia ghi chép việc bầu hậu Thần xã Hội Thống, tổng Đan Hải, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang.
 
Ôi! Ngày nay việc chính yếu là bố thí báo đức vậy. Cả thiên hạ đều chăm chú vào đó, huống hồ ở làng xóm? Trong ấp ta có vị cựu Đồng tri Nghi Lĩnh bá Vũ Vinh Tiến.
 
Ông tính tình hào hiệp ngay thẳng, tấm lòng luôn nhân nghĩa. Trong quân ngũ, luôn có tâm tư phủ(2) mà vẫn không vong bản. Phàm là có việc thì bất kể tiền của, dốc hết sức, phụng thờ thần. Lại như việc tu sửa đê điều, ông đều chu cấp cả. Người trong ấp vô cùng cảm kích. Ông lại quyên góp cổ tiền là 630 xâu, chia đều các viên sắc. Binh Hộ trong ấp 200 xâu, các chức ở thành Thăng Long là 30 xâu để dựng vào việc công vậy. Bốn thôn, mỗi thôn 100 xâu tiền, cho vay lãi thu lợi tức lấy tiền chi phí vào tô dung. Ông đã bố thì thật hậu hĩ vậy.
 
Vì thế, dân bàn nhau muốn báo đáp mà nói rằng: Phong tục có việc thờ hậu Thần, nay có thể tôn thờ ông được chăng? Tất cả đều nói: Được! Bốn thôn bầu ông, cùng bà vợ cả là Trần thị. Lại truy bầu cả Hiển khảo tỉ (bố, mẹ ông) làm Hậu Thần, để báo đáp ân đức. Ông nói nếu vậy thì thờ tự không thể không có ruộng, nên lấy 8 mẫu ruộng chia cho các viên sắc, binh hộ mỗi ấp là 2 mẫu. Còn bốn thôn, mỗi thôn 1 mẫu 5 sào để cúng giỗ. Vì thế mà làm lời đoan ước khắc vào văn bia. Lời ước khắc ở mặt bên bia.
 
Hậu thần Thiêm Tổng tri Phúc Lĩnh bá thời Cựu Lê, họ Vũ tên tự là Hán, hiệu Nghĩa Chính, tên thuỵ là Đôn Hậu, giỗ ngày 24 tháng 5.
 
Bà chính thất viên Thiêm Tổng tri Phúc Lĩnh bá họ Vũ là Trịnh thị hiệu Từ Nhã, tên thuỵ là Ôn Nhu, giỗ ngày 21 tháng 1.
 
Cựu Đồng tri Nghi Lĩnh bá họ Vũ, tự là Vinh Tiến, hiệu là Quang Diệu, thuỵ là Chiêu Như. Sinh ngày 15 tháng giêng năm Kỷ Mão, giỗ ngày 25 tháng 12.
 
Cựu Đồng tri Nghi Lĩnh bá Vũ công chánh thất họ Trần, tên hiệu là Từ Đức, tên thuỵ là Thận Cung, sinh ngày ngày 25 tháng 10 năm Tân Tỵ.
 
Khi này năm Kỷ Mão, bản xa phụng sửa sổ đinh bạ, tăng lên 31 suất. Năm Giáp Thân đăng sổ lại Hậu thần, nêu gương tấm lòng hậu hĩ, lại bỏ tiền của gia tư cúng 160 xâu tiền cổ để 4 thôn cho vay lấy lãi, chi phí vào tiền dung hàng năm. Nay khắc thêm vào bia.
 
Lập bia ngày 3 tháng 9 năm Kỉ Tỵ niên hiệu Hoàng triều Gia Long thứ 8 (1809).
 
Bản xã cùng soạn cùng ký.
 
Mặt sau: Mãi mãi vô cùng
 
Thể lệ Hậu Thần và ruộng các xứ.
 
Phàm là hát xướng cầu phúc thì 4 thôn, mỗi thôn 1 người đến mời ra đình dự lễ, ông ngồi bên phải ở trên, bà ngồi sau hương án.
 
Phàm làm đại lễ cầu phúc, thì 4 thôn mỗi thôn  1 người đến mời ra đình dự lễ. Lễ xong, biếu một mâm cồ, cùng thịt thủ lợn 1 cân.
 
Ngày sinh nhật, dâng lễ tương đương 3 quan cổ tiền.
 
Sau khi trăm tuổi, thì viên chức Tư văn, binh hộ, xã trưởng đến phúng viếng theo nghi thức, còn việc tống tiễn thì tùy gia chủ yêu cầu 4 thôn đến giúp.
 
Lập bia Hậu Thần thờ ở bên trái đình, gian giữa thờ ông và vợ ông làm Hậu Thần. Ngày sinh nhật, đem lễ vật đến trước bia để chúc thọ, sau ngày trăm tuổi, thì cúng giỗ. Lễ giỗ mỗi thôn tùy nghi sắm trầu cau, cẩn cáo trước với thần ở đình. Đến lúc cúng giỗ thì Tư văn áo mũ chỉnh tề, đến trước bia hành lễ. Các viên chức của bản xã và trùm trưởng trong bốn thôn cùng hành lễ. Thôn nào sắm lễ thì trùm trưởng thôn đó làm chủ tế, còn chúc văn phối hưởng như nghi thức giỗ gia lễ. Lễ giỗ xong, biếu 1 mâm khoanh cổ lợn cho bản tộc, biếu thủ lợn cho người hành lễ, còn thịt thì chiếu bổ người có mặt ăn uống.
 
Hàng năm, khi bản xã tế Thần đại lễ đọc chúc văn mời về hâm hưởng, thì biên chộp đầy đủ bài vị Hậu Thần và phối hưởng. Lễ sắm 1 mâm cau trầu rượu đủ dùng đặt trước bia tế lễ. Tế xong thì hoàn trả xã.
 
Hai mẫu mộng cho binh hộ tư văn xã trưởng, chiếu thu lúa cúng giỗ 2 vị hậu Thần sau khi trăm tuổi, cỗ 2 lễ, mỗi lễ tiền 3 quan.
 
Ruộng tế chia cho bốn thôn, cộng là 6 mẫu đều ghi chộp trong văn tự rất rõ.
 
Đông Thượng thôn 1 mẫu 5 sào. Nội Đạt 1 mẫu, Đạt Sáu 5 sào.
 
Đông Hạ thôn 1 mẫu 5 sào. Nội Đạt 1 mẫu, Đạt Sáu 5 sào.
 
Đoài Thượng thôn 1 mẫu 5 sào. Nội Đạt 1 mẫu, Đạt Sáu 5 sào.
 
Đoài Hạ thôn 1 mẫu 5 sào. Nội Đạt 1 mẫu, Đạt Sáu 5 sào.
 
Số ruộng đó giao cho cày cấy thu hoa màu, hàng năm mồi thôn biện một lễ 3 quan tiền.
 
Binh hộ, tư văn, xã trưởng, ruộng các thửa 2 mẫu đều ghi chép trong văn tự.
 
Ruộng cho tư văn 3 sào. Đạt nhất xứ
 
Ruộng  binh là 8 sào, nội Đạt Nhất 3 sào, Đạt Sáu 5 sào
 
Ruộng Hộ  8 sào, nội Đạt Nhất 3 sào, Đạt Sáu 5 sào
 
Xã trưởng 1 sào xứ Đạt Nhất
 
2. Lập thạch bi ký
 
Bia dựng trong nhà bia bên phải đình Hội Thống, xã Xuân Hội, huyện Nghi Xuân. Bia khắc 1 mặt, khổ 105 x 65 cm, chữ Hán, chữ khắc chân phương. Bia dựng năm Khải Định 1 (1916) do vị họ Nguyễn đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1904) soạn. Chạm hoa văn cách điệu lá.
 
 
Phiên âm: Lập thạch bi ký
 
Hà Tĩnh tỉnh, Đức Thọ phủ, Nghi Xuân huyện, Đan Hải tổng, Hội Thống xã bi kí.
 
Cổ hữu bất hủ tam, lập công nhất thượng yên giả. Công tại quốc, quốc hữu sử; công tại quận, quận hữu phổ; công ư nhất hương, hương chi nhân trách trách nhiên, mĩ đàm nhi phất chí chi, lặc chi bách thế hạ như thịnh tích chi uất yên hà, ngô xã tân đại hải giới song đảo tương cổ tại.
 
Tích tiên dân hữu khác, văn hữu từ, xã hữu đàn, Phật hữu tự, Thần hữu miếu, hợp tự bách linh tắc hữu đình vũ, quy củ bỉnh như dã. Vật thành hữu hoại, khí cửu tắc tệ. Thường nghị dĩ tu sức chi giả nhi phí thủy phủ bình chuyết vu lực, biền đoản cấp trường, tương dĩ tiệm yên.
 
Phan tính tiên nhân ông trọng lang, tự Mật Phủ, hiệu Thành Lợi, bản xã nhân, phố vu ngô Hoan chi hoàn thành, tiền dĩ bác thức hĩ. Hội viên lệnh chính Nguyễn thị tắc Bắc Hà Dương Tảo sản dã. Tịch tích khánh phục hộ trì hóa hằng, trí ân thực khái nhiên hữu căn bản chi tư giả.
 
Thìn quy hương mưu chi quyên tư cưu công văn từ, xã đàn cập tự miếu, thứ đệ tu lí. Mộc chi hủ giả, kiên chi; ốc chi mao giả, ngõa chi. Khởi Thành Thái thập cửu niên, kế Duy Tân lục niên cáo quyết, thành công vô lự xả sở ư dân chi tài chi lực, võng sám hào phí đồng xã tư hân úy yên, nhi ông chi ý nhược do liễm nhiên giả vô hà.
 
Duy Tân lục thất niên xuân chính cự Tiên tiên hồ, ngoại du hĩ. Phó âm hồi xã nhân vong bất điệu tích tích. Kì nhân diệc âm kì chí chi vị cánh dã. Bất vị lệnh chính hựu đắc thị tâm sở đồng nhiên khách tuế phục quan trí từ viết: Trí lực vu Thần tiên, quân chi tư nhi miếu vu đình sở do hữu khuyết như dã, vị vong nhân cảm bất quy miễn tốt chi ái, nhất nhất (?) ông sở vi nhi thi kỳ sự phí hiệu hạo dịch hạo tuấn. Nhân ngư miếu tu cố dã. Đức ngư miếu tác tân dã. Cơ bách niên lai cực cao dĩ quảng chi đình vũ, hựu phấn sức nhi bác tường ngõa cái chi dã.
 
Sở vị phụ đạo chi đại hữu chung giả thị lý kì toàn tiên nhân ông chi linh kỳ vô cảm. Ư thị quyết hậu, xuân thu hưởng tự đổ vọng giai đan hoạch hĩ. Thần chi cách tư, cảnh phúc can man nhi hưng tác giả, ngã lê dân thượng diệc hữu lợi hĩ. Thi báo chi nghi cộng mưu dĩ biểu kì tình. Lệnh chính từ yên. Tuy nhiên tư bất cầu báo cổ phong dã. Thiện bất khả một, công lý dã. Ta hồ, trần ai dã mã gian ích ư thời văn ư hậu lư tỉnh trung bất sác kiến hữu năng dĩ sở cập giả cập nhân, thị diệc giản bán cá chi tuyền thăng hữu năng dĩ sở di giả di quỷ thần, diệc tập chúng cô chi dịch nhĩ, nãi thiên bách nhân cung ức bất cấp chi tư nhi xuất vu nhất gia chi tích thiên bách thế sùng bái vô cùng chi địa nhi thành vu thập tải chi gian, tài lực đương hà như kì nan thả dã. Thành thị ẩn nhi tang tử tất cung thử mỗ nhân chi nan cân quốc trung tri dã nhi mộ kì huệ bất khả bất kí kì thực, thả tương sử thế chi nhân thủ giám hoăng giả kì quật thủ hạ hồ? Doanh tư nang giả kì mấn tâm thoái hồ lạc thiện hảo nghĩa nhi nội, cung chi kiện giả kỳ tương văn phong nhi hưng khởi hồ. Tích hữu chi nhi thành bất dĩ phúc diệc kì dĩ dị tắc công lập lệ nhi nhân dĩ lập ngôn thị diệc nhất đại để lệ tại tải lặc chi thạch sử bất hủ dũ bất hủ.
 
Hoàng triều Khải Định nguyên niên tuế tại Nhu triệu chấp đồ, Qua nguyệt cốc đán lập.
 
Bản xã viên sắc tư văn binh hộ lí dịch tứ thôn thượng hạ hợp chí.
 
Sắc tứ Giáp Thìn khoa Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, bản hạt Long Khê, Mâu Nguyên thị Hữu Tuyết tử soạn.
 
Dịch nghĩa: Văn bia ghi việc lập bia
 
Bài kí trên bia xã Hội Thống, tổng Đan Hải, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
 
Người xưa có ba thứ bất hủ, thì lập công là đứng ở hàng đầu. Lập công với nước, thì đã có quốc sử, lập công với quận thì có phả chép lại, còn lập công ở một làng thì người trong làng vui mừng nói lời tốt đẹp, há lại không ghi chép lại, không khắc lên bia đá để trăm đời về sau dấu tích như còn nguyên sao?
 
Vả lại, xã ta giáp bờ biển lớn, có hai hòn đảo liền kề. Trước ngày dân luôn kính trọng, thờ tiên hiền có từ chỉ, xã dân lập xã đàn, nhà Phật có chùa, Thần có miếu thờ chung, Bách linh có đình vũ quy củ rõ ràng như thế vậy! Vật viên thành ắt có lúc phải hư hại, đồ vật lâu ngày không dùng cũng ắt hỏng. Vì thế mà bàn bạc sửa chữa, tô điểm, lấp ao trũng, san cho bằng, lấy ngắn phụ dài, cứ dần dần vậy.
 
Phan tiên nhân là con trai thứ, tên tự Mật Phụ, hiệu Thành Lợi, là người trong phố của bản xã thuộc thành Hoàn đất Hoan Châu ta. Do có hiểu biết nhiều mà ông được sung làm hội viên. Lệnh chính là Nguyễn Thị người Dương Tảo đất Bắc Hà. Nhà tích phúc thiện, giúp bằng tiền của hết sức ân cần, lại luôn có được cái ân nghĩa căn bản.
 
Khi này, ông về làng bàn tính việc quyên tiền để hoàn thành công việc ở văn từ, xã đàn, cùng chùa miếu lần lượt tu sửa. Những chồ bằng gồ bị hư hỏng thì thay cho chắc lại, mái nhà lợp gianh lá thì lợp lại bằng ngói. Công việc khởi công năm Thành Thái 19 (1907) đến năm Duy Tân thứ 6(1912) mới hoàn thành, không còn lo lắng là phải thu góp tài lực của dân trong xã, mà cái ý của ông cũng là được như thế.
 
Năm Duy Tân thứ 7(1913), mùa xuân, ngài vội đi về cõi tiên. Tin cáo phó báo về xã, không ai không buồn thương, mà than rằng: chí người chưa đi được đến tận cùng. Nhưng chính lệnh bà lại có cùng tâm lòng. Ngày mãn tang, lệnh bà bái từ rằng: Có chí lực là nhờ ở thần, nhớ tiên quân thấy miếu vũ đình sở còn dang dở như vậy mà gắng sức làm tiêp công việc của Thái ông đang để lại. Chẳng mấy chốc, mọi việc tố hảo.
 
Miếu Nhân Ngư tu sửa như cũ, miếu Đức Ngư được làm mới vậy. Biêt bao đá kè chở đến chất cao để mở rộng quy mô đình vũ. Lại tô vẽ trang hoàng, xây tường lợp ngói. Đó là đạo làm vợ đó thay chồng đi đến tận cùng vậy. Nay thấy sự linh nghiệm của tiên ông, không thể không cảm kích. Từ nay về sau xuân thu thờ tự, hết thảy rực rỡ.
 
Thần linh ứng nghiệm, lưu danh thịnh điển che chở thần dân lợi lộc. Dân làng nghĩ việc báo đáp ân huệ mà bàn bạc để tỏ thiện tình thì thái bà chối từ. Làm ơn không cầu báo đáp, đó là phong tục ngày xưa. Điều thiện không thể mất, đó là công lý vậy. Than ôi! liệu mai sau trong xóm làng có ai có thể sánh kịp như thế không? Nơi cõi tiên, thần linh chứng giám. Muôn năm cúng dàng, hết thảy tâm niệm rằng: Một nhà tích thiện thì trăm ngàn đời được sùng bái mãi mãi.
 
Tuy vậy, mười năm lại đây, tài lực khó khăn, lòng người khó nhọc...(3)
 
Nay dựng bia đá để muôn đời truyền mãi, càng lâu càng vững bên bất tận.
 
Ngày lành tháng Qua năm Nhu triệu Chấp đồ Hoàng triều Khái Định nguyên niên (1916) dựng bia.
 
Sắc tứ Giáp Thìn (1904) khoa Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, bản hạt Long Khê, Mâu Nguyên thị Hưu Tuyết tử soạn văn bia(4)
 
Chức sắc, tư văn, binh hộ, lí dịch 4 thôn trong xã trên dưới cùng kí.
 

Chú thích:

 
(1) Đoạn này được khắc thêm về sau.
 
(2) Tư phủ: Dùng điển cố. Nguyên nghĩa là Lợi phủ chi nghĩa, tức là có nghĩa làm lợi cho chiếc phủ - chiếc rìu, nhờ đó giúp việc tiện lợi phát quang bụi gai cản đường; ý chỉ có công lao.
 
(3)Đoạn này viết vòng vo, khó hiểu, chúng tôi lược bớt.
 
(4)Không rõ họ tên tác giả soạn bài văn bia này. Trong khoa thi năm Giáp Thìn (1904), không thấy có ai đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân có tên tự như vậy.
 
 
B.K /Theo cuốn Hà Tĩnh di tích Quốc gia và Quốc gia đặc biệt – NXB Đại học Vinh năm 2014.