nguyendu.d.webcom.vn
Loading...

Bộ đếm lượt truy cập

web counter html code

Nhã nhạc cung đình Huế


Nhã nhạc cung đình Huế là loại hình âm nhạc chính thống và được xem là quốc nhạc của cung đình thời phong kiến của Việt Nam trong suốt 10 thế kỷ. Thông thường nó được biểu diễn vào các dịp lễ hội như ngày vua đăng quang, vua băng hà và các lễ hội tôn nghiêm khác. Loại hình âm nhạc này đã được nâng cao, hoàn chỉnh tinh tế dưới triều Nguyễn, càng khẳng định hơn Huế là một trong những trung tâm văn hóa của dân tộc.
 
Theo từ điển Trung Quốc thì nhã nhạc phiên âm theo tiếng Hán là Ya yue: Nhã có nghĩa là trang nhã, lịch sự; nhạc là âm nhạc, tức là nhạc chính thống, được dùng các cuộc tế Giao, tế Miếu và các dịp hội triều. Vì vậy, nhã nhạc được tổ chức thành chuyên nghiệp và có quy mô mang tính bác học, nó hoàn toàn đối lập với âm nhạc dân gian (tục nhạc).
 
Nhã nhạc cung đình Huế gồm 3 yếu tố: Nhạc, múa và hát, trong đó nhạc và múa chiếm tỷ lệ nhiều hơn. Ví dụ trong khi các nhạc công diễn tấu Đại nhạc, hoặc Tiểu nhạc thì cho xen vào các điệu múa rất độc đáo thể hiện rõ bản sắc văn hóa Việt Nam như: Điệu cung đình đặc sắc “Lục cúng hoa đăng”, múa “Múa Lân”, “Mẫu xuất”, “Lân nhi”, “Múa kiếm”, múa “Trưng Vương xuất quân”... Ngoài ra còn có một số điệu múa khác như múa liệt vũ, dùng khi Thái Hậu lên ngôi, múa Thanh hoa chi, Hồng hoa chi, dùng khi tặng lễ vật, múa Tiên đào, Quả vũ, khi Thái hậu hồi cung… đồng thời còn có múa văn, múa võ, dùng trong tế Giao, tế Miếu.
 
Trình diễn Nhã nhạc cung đình Huế (ảnh: Internet).
 
Niên biểu Nhã nhạc cung đình Huế
 
Thế kỷ XVII – XVIII ở Phú Xuân và Đàng Trong: thời các chúa Nguyễn (1558 -1777)
 
Từ những năm 30 của thế kỷ XVII, nhà văn hóa lớn Đào Duy Từ (1572 – 1634) tương truyền là tác giả của một số bài hát điệu múa và vở hát bội cung đình thời các chúa Nguyễn, ông tổ lớn nhất của âm nhạc Huế và hát bội Huế được thờ tại nhà thờ Thanh Bình ở Huế đã tiếp thu nhạc Đàng Ngoài, và đã giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1623 – 1634) lập ra một hệ thống lễ nhạc, triều nhạc mới. Hòa thanh thự của các chúa là tổ chức âm nhạc cung đình lớn của Đàng Trong gồm ban nhạc, đội ca, đội múa đông đảo (Đại Nam thực lục tiên biên). Cuối thế kỷ XVII – đầy thế kỷ XVIII, nhạc cung đình Đàng Trong đã khá hoàn chỉnh, phong phú, hấp dẫn, theo những ghi chép và đánh giá của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán, thượng khách của chúa Nguyễn Phúc Chu (1692 – 1725) sau chuyến đi thăm Đàng Trong và Phú Xuân của ông. Được mời xem ca múa nhạc và hát bội tại phủ Chúa, nhà sư cho biết điệu múa nổi tiếng thời đó là điệu múa Thái liên diễn tả dáng dấp đài các, trang nhã, tình tứ của các cô “tiểu hầu” của đô thành Phú Xuân vừa chèo thuyền vừa tươi cười hái sen. Các ca nhi vũ nữ ấy “đội mão vàng, áo hoa xanh dài phết đất, thoa son dồi phấn rất mực diễn lệ, làm nao lòng người xem” (hồi ký Hải ngoại kỷ sự, bản dịch, 1963).
 
Cuối thế kỷ VXIII: thời Tây Sơn (1788 – 1802)
 
Năm 1790, tức một năm sau khi đại thắng Đống Đa ở Thăng Long, vua Quang Trung (giả) cầm đầu đoàn ngoại giao sang triều đình nhà Thanh, cầu hòa và chúc thọ hoàng đế Càn Long 80 tuổi, Càn Long ý phong cho vua Đại Việt là “An Nam quốc vương” và vui lòng thưởng thức đoàn “An Nam quốc nhạc” biểu diễn chúc thọ. Nhờ những ghi chép cụ thể của Đại Thanh hội điển sự lệ  và tập văn kiện ngoại giao Đại Việt quốc thưmà âm nhạc cung đình thời Tây Sơn hiện ra khá rõ nét. Hội điển triều Thanh đã mô tả chính xác trang phục các nhạc công, ca công và vũ công người Việt. Nghệ nhân cung đình Tây Sơn chơi 8 loại nhạc khí: “Một cái trống, một cái phách, hai cái sáo, một cái đàn huyền tử, một cái đàn hồ cầm, một cái đàn song vận, một cái đàn tỳ bà, một cái tam âm la. Đó là phần nhạc khí.
 
Về phần hát, Đại Việt quốc thư cho biết bổ sung như sau: nhân dịp lễ thượng thọ của Càn Long 80 tuổi, đoàn quốc nhạc của ta gồm 6 nhạc công và 6 ca công cung đình đã biểu diễn cho hoàng đế nhà Thanh nghe “nhạc phủ từ khúc thập điệu”. Rất có thể đây là liên khúc 10 bản “Thập thủ liên hoàn” nổi tiếng trong nhã nhạc cung đình Huế, cũng gọi là 10 bản Tấy, hay 10 bài Ngư, chí có nghệ nhân gọi là 10 bản Tấy, hay 10 bài Ngự, thậm chí có nghệ nhân gọi là mười bản Tàu).
 
Thế kỷ XIX: Thời thịnh của triều Nguyễn (1802 – 1885)
 
Theo những tài liệu tham khảo hiện có, thời kỳ vàng son của âm nhạc cung đình Đại Việt – Việt Nam – Đại Nam là thịnh thời triều Nguyễn trước khi kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ vào năm 1885. Hai tài liệu chủ yếu là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (đầu thế kỷ XIX) và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Quốc sử quán (giữa thế kỷ XIX) cho biết: Từ khi Gia Long lên ngôi đến khi Tự Đức mất (1883) âm nhạc cung đình Phú Xuân bây giờ quen gọi là Nhã Nhạc Cung đình Huế đã được phục hồi, chấn chỉnh và phát triển mạnh. Các loại Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung chi nhạc đã ảnh hưởng qua lại nhiều với nhạc cổ điển thính phòng (ca Huế, đờn Huế) cả nhạc tuồng cổ điển, cung đình (thanh nhạc và nhạc múa của hát bội Huế). Đáng chú ý là nhiều nhà hát, rạp hát lớn nhỏ của vua, đại thần và dân thường được xây dựng làm nơi biểu diễn nhạc cung đình, nhạc cổ điển, hát bội hay nhạc dân gian: Duyệt thị đường trong hoàng thành, Minh Khiêm đường trong lăng Tự Đức, Cửu tư đài trong cung Ninh Thọ, rạp hát ông Hoàng Mười, nhà hát Mai Viên tại tư dinh thượng thư Đào Tấn, đã không loại trừ sự tấp nập của những rạp hát ông Sáu Ớt (Nguyễn Nhơn Từ), rạp hát gia đình họ Đoàn (ở An Cựu), rạp hát bà Tuần (tồn tại đến 1975)…
 
1802 - 1819: Thời Gia Long, Việt tương đội, một tổ chức âm nhạc cung đình lớn được thành lập với 200 nghệ nhân. Vua lại cho dựng đài Thông minh, một sân khấu ca múa nhạc và hát bội trong cung Ninh Thọ.
 
1820 -1840: Minh Mạng cho xây dựng Nhà hát lớn Duyệt thị đường (1824), đổi Việt tương đội thành Thanh bình thự, lập thêm một Đội nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ nữ, lại cho xây dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế: Thanh Bình từ đường (1825). Trước nhà thờ dựng một tấm bia, một sân khấu hát bội và ca vũ nhạc. Văn bia cho viết vào đời Minh Mạng, nghệ thuật âm nhạc và sân khấu đã phát triển tốt đẹp: “Vũ đài xuân rạng hàng ngũ chỉnh tề, sân khấu mây lồng âm thanh dìu dặt… Khánh chuông ra lệnh xướng hòa, kèn trống nhịp nhàng đánh thổi". Trải mấy triều vương đều khuyến khích, Biết bao âm nhạc thảy dồi dào. Giữ điện đình ca múa, tô điểm thái vận nước nhà, trên lăng miếu xướng hòa, ngưỡng đức cai thâm biến núi.
 
1841 – 1883: Đời Tự Đức, âm nhạc cổ điện, nhã nhạc và hát bội cung đình đạt tới đỉnh cao. Nhà hát Minh Khiêm đường được xây dựng (1864) trong Khiêm cung (sau khi vua mất sẽ gọi là Khiêm lăng). Tương truyền chính Tự Đức đã sáng tác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ, nhạc đã sáng tác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ, nhạc và hát bội hơn chính trị, vua lập nên Hiệu thơ phòng để cùng các danh nho trong triều đình xướng hoa văn thơ, thưởng thức âm nhạc, sáng tác hay nhuận sắc các vở hát bội. Nhà thơ và nhà soạn tuồng lỗi lạc thời Tự Đức là Đào Tấn (1845 – 1907)
 
Thế kỷ XIX: Thời suy của triều Nguyễn (1885 – 1945)
 
1858 – 1885: Thực dân Pháp gây hấn và bắt đầu xâm lược nước ta từ Đà Nẵng, rồi chiếm dần Nam Bộ, Bắc Bộ. Tháng 8 năm 1885 kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ. Đời sống cung đình tẻ nhạt, âm nhạc cung đình ngày càng sa sút.
 
1889 – 1925: Thành Thái lập Võ can đội, rồi thêm một đội Đồng ấu (nghệ nhân thiếu niên, làm sự bị cho Võ can đội). Tất cả đều hoạt động cầm chừng.
 
1914 – 1944: Tập san Những người bạn của Huế cổ kính bằng tiếng Pháp ra đời và xuất bản tổng cộng 120 tập trong suốt 30 năm dưới sự điều khiển của nhà Việt Nam học lỗi lạc L.M. Lesopold Cadière. Nhiều bài nghiên cứu có giá trị về nhạc Huế được công bố trên tập san, nổi bật nhất là công trình của nhạc sĩ cổ điển Hoàng Yến (1919):Âm nhạc ở Huế, đàn nguyệt và tranh.
 
1925 – 1945: Dưới thời Bảo Đại, Võ can đội đổi thành Ba vũ đội gồm cả một đội Đại nhạc và một đội Tiêu nhạc tổng cộng khoảng 100 nghệ nhân hoạt động rời rạc, trong lúc chờ đợi làm nhiệm vụ chính: tham gia phục vụ lễ Tế Nam giao (3 năm một lần)
 
Năm 1942 là năm cuối cùng triều Nguyễn cử hành lễ Tế Nam giao, cũng là lần cuối cùng Nhã nhạc cung đình Huế được biểu diễn trọng thể trước công chúng.
 
Ngày 31 tháng 8 năm 1945, trên Ngọ Môn, hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn vương quốc Đại Nam thoái vị. Nhã nhạc cung đình Huế tạm thời tan rã.
 
Nếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh; thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân – Huế. Về Nam cầm – đàn Nam, tương truyền là một nhạc khí dùng trong Ca Huế tồn tại chưa đầy một trăm năm đã mất tích. Theo nhà nghiên cứu Bửu Cầm, người chế tác ra nhạc khí này là Nguyễn Phúc Dục – một vị hoàng thân thời Nguyễn chúa Diệu Tông (1765 – 1777). “Dục rất tinh nhạc lý, xét nghiệm âm điệu tiết tấu chẳng bao giờ sai lầm. Thương hiềm vì điệu nam rất cao, đàn xưa nhấn nhịp không đúng, Dục mới chế ra cây nam cầm. Đàn có tám dây, thùng dày và vuông, cần đàn dài ba thước mộc, hợp đàn cầm, đàn sắt và đàn tỳ bà làm một, tiếng rất thanh, lấn cả đàn tranh, đàn nguyệt”.
 
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, nhã nhạc cung đình Huế ngày càng khẳng định được vị thế của mình là một loại hình âm nhạc độc nhất vô nhị của Việt Nam. Ngày nay, nhã nhạc đã trở thành tài sản chung của nhân loại. Ngày 7-11-2003, Nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Trong phần nhận định về Nhã nhạc cung đình Huế, UNESCO đánh giá: “Nhã nhạc Việt Nam mang ý nghĩa “âm nhạc tao nhã”… Trong các thể loại nhạc cổ truyền Việt Nam chỉ có nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia. Nhã nhạc Việt Nam đã có từ thế kỷ XI, đến thời Nguyễn thì Nhã nhạc cung đình Huế đạt đến độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất”.
 
 
Theo An Nhiên/Baotanglichsu.vn