Loading...
|
Bảo tồn tối đa tính nguyên gốc: Cách ứng xử đúng nhất với di sảnNgày 14 tháng 06 năm 2021
Hiểu về bảo tồn di sản trong tính nguyên gốc
Di sản thường hay được xem là bất động sản, là đối tượng vật lý thuần túy, nhưng di sản là cơ thể sống từ quá khứ, thay mặt quá khứ nói cho chúng ta về lịch sử, văn hóa, hồn nơi chốn và giá trị đặc trưng của một vùng đất, một quốc gia. Không phải cứ công trình cũ, lâu năm mới là có giá trị di sản. Đôi khi công trình có niên đại chưa lớn nhưng ý nghĩa nó với một đô thị, sức ảnh hưởng của nó trong đô thị rất lớn. Và đôi khi nó mang rất ít giá trị thẩm mỹ, có khi nó khá ngô nghê, chưa đủ khéo léo để người ta phải trầm trồ về vẻ đẹp nghệ thuật, nhưng miễn là nó đứng đó, nó còn đó thì người ta còn nhận ra linh hồn của đô thị đó. Đấy là bởi sự thân quen, đấy là bởi tính gần gũi của di sản đó trong cộng đồng, nhất là khi nó có mặt trong đô thị từ những thời kỳ đầu, được lập ra bởi mồ hôi, công sức của những người đầu tiên tới khai hoang vùng đất đó.
Vì tất cả những ý nghĩa như vậy mà trên thế giới, người ta nhận ra rằng cần giữ gìn di sản với quan điểm: Giữ gìn giá trị thật, tính nguyên bản, tính chân xác, sự chính xác (Tiếng Anh gọi là Authentic). Càng tôn trọng lịch sử (ở đây là lịch sử dân tộc, lịch sử một vùng đất chứ không nên hiểu là lịch sử của một thể chế), người ta càng ngày càng đề cao tính chân xác, tính nguyên bản của di sản.
Cũng cần phải nhắc lại về mặt lý luận, có những căn cứ sau:
Nhìn từ 2 trường hợp điển hình ở Đức và ở Việt Nam
– Cái chuồng bò ở Đức: Cần nhắc lại trường hợp ở Đức người ta giữ lại một cái “chuồng bò” cũ 120 năm tuổi, dù rằng nó rất xuống cấp: Sàn mục ruỗng, cột kèo xiêu vẹo… nhưng người ta đã kết luận: “Phải giữ lại cái Chuồng bò đấy như một phần di sản của làng”. Vì nó là di sản (ký ức văn hóa) của các thế hệ trong quá khứ phải chuyển sang thế hệ tương lai (được coi như trung tâm lịch sử) như một yếu tố cơ bản của bản sắc. Nó được coi là cảnh quan xã hội (không nhất thiết to đẹp, khang trang, nhiều khi phải quy mô cũng khiêm tốn, vì dân ở đấy họ quen với những thứ nhỏ bé, các khoảng cách, cự ly không gian vừa phải, ấm cúng). Nó phản ánh chuyên môn, kiến thức địa phương, tinh thần kinh doanh địa phương, sự sáng tạo của người dân địa phương trong một thời điểm của quá khứ. Nó giúp cho con người ở đó khác với con người ở chỗ khác.
Người ta đã thống nhất rằng cái Chuồng bò là một thành phần không nên tách rời khỏi “phức hợp cảnh quan di sản” của ngôi làng đó (“complex urban landscape of historic urban”) và nó phải được đối xử như một Di sản. (Nguồn: Bài của KTS. Lê Quang). Và người ta vào cuộc giữ gìn nó một cách nguyên vẹn, đầy đủ để giữ được bầu không khí của ngôi làng như vốn nó đã có
– Ví dụ thành công về thực hành bảo tồn Đình Trần Đăng:
Vừa qua chúng ta cũng có một trường hợp bảo tồn nguyên gốc rất có ý nghĩa, đó là bảo tồn đình làng cổ Trần Đăng (thuộc xã Hoa Sơn, huyện Ứng Hòa). Trong hàng nghìn đình làng cổ, nay chỉ còn vài trăm cái được xây dựng từ thế kỷ 17, 18 lại đang đứng trước nhiều mối nguy: thời gian làm mai một, mục ruỗng, sẵn sàng đổ sụp xuống bất kỳ lúc nào, nhưng nguy hại hơn là công tác “mang danh trùng tu” sẵn sàng đập bỏ xây mới, hủy hoại di tích, thay thế, sơn phết tùy tiện… đang trở thành hiện tượng thường thấy (theo nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng). Đình làng Trần Đăng rất có giá trị về kiến trúc (chữ Công, có 7 gian), về cảnh quan (được xây trên một khu đất hình con rùa, xung quanh là hệ thống mặt nước, cây cầu, giếng làng, tháp chuông, chùa… tạo thành quần thể rất đẹp). Dù công trình kết cấu gỗ này đã bị mối mọt, bị hư hại nghiêm trọng do đã trải qua 400 năm, nhưng những người làm công tác bảo tồn công trình này đã quyết tâm không hạ giải, vì nếu hạ giải thì toàn bộ đầu đao với linh vật bằng gốm đen và gạch nóc hoa chanh cũng bằng gốm có niên đại khoảng 300 năm vô cùng quý giá này sẽ bị phá hủy, giá trị lịch sử và văn hóa của Đình Trần Đăng sẽ giảm sút, xuống cấp. Hơn nữa, nhóm thực hành bảo tồn đã tuân thủ nguyên tắc đã trở thành bất di bất dịch trong bảo tồn di sản: đảm bảo sự tồn tại tính nguyên gốc di tích, hạn chế tối đa tính can thiệp vào di tích, các thành phần thay thế phải phân biệt với phần nguyên gốc để tránh sự nhầm lẫn; ưu tiên bảo quản, gia cường sau đó mới đến tu bổ phục hồi và tôn tạo; Đảm bảo không hạ giải nhưng thay thế được toàn bộ các chi tiết hỏng hóc của đình, công cuộc trùng tu được đánh giá là thành công. (Nguồn: Tọa đàm “Trùng du đình Trần Đăng: Giữ lại một di sản tưởng chừng không thể cứu vãn”, tháng 6-2019)
Bài học về việc giữ lại một di sản kết cấu gỗ 400 tuổi gần như nguyên vẹn đã mang lại cho chúng ta một hy vọng mới về sự thay đổi nhận thức trong ứng xử với di sản, mở ra một tương lai cho di sản: Khi cộng đồng hiểu giá trị, hiểu về ý nghĩa di sản, cộng đồng sẽ có ý thức và cùng tìm giải phải bảo vệ, làm sống dậy các di sản.
Di sản là biểu tượng của văn hóa, một giai đoạn văn minh đã đạt được trong lịch sử vì vậy nó luôn cần được tôn trọng. Vẻ đẹp nghệ thuật (về thẩm mỹ, kiến trúc, phong cách, tỷ lệ…) của di sản chỉ là một phần của giá trị. Ý nghĩa của di sản nằm ở sau nó. Phía sau di sản là thông tin, là các thông điệp của tiền nhân để lại cho chúng ta, khẳng định giá trị lịch sử, giá trị nơi chốn. Đây mới chính là điều mà thế hệ chúng ta phải giữ gìn. Theo Nguyên Hạnh Nguyên*/tapchikientruc.com.vn (Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 06-2019)
Di sản văn hóa
|